Nhu cầu này chẳng những cần thiết cho những người nghiên cứu chuyên sâu về lí luận chủ nghĩa cộng sản khoa học mà còn có ý nghĩa đối với tất cả những ai quan tâm tìm hiểu lịch sử phát triển của xã hội loài người trong lĩnh vực tinh thần nhất là những nhân tố, những trào lưu tư tưởng có quan hệ đến sự hình thành chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Cùng với việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa, việc nghiên cứu tác phẩm kinh điển của chủ nghỉa xã hội khoa học sẽ giúp chúng ta nhận thức được hoàn chỉnh hơn lí luận của chủ nghĩa cộng sản khoa học là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin. V.I.Lênin đã đánh giá một trong những cuốn sách gối đầu giường của giai cấp công nhân đó là tác phấm: “Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học” của Ph.Ăngghen. Tác phẩm gồm có lời nói đầu của C.Mác – Ph.Ăngghen và có ba chương:
- Chương I: Đánh giá những giá trị và hạn chế của chủ nghĩa xã hội không tưởng và chỉ ra những phương hướng để hình thành chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Chương II: Ph.Ăngghen luận chứng về triết học của chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Chương III: Ph.Ăngghen luận chứng về kinh tế của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Trong khuôn khổ bài viết này tôi chỉ đề cập đến sự luận chứng về triết học của chủ nghĩa xã hội khoa học được Ph.Ăngghen trình bày trong tác phẩm.
Cụ thể, trong tác phẩm Ph.Ăngghen đã trình bày quá trình hình thành phát triển của phép biện chứng. Vì trong tư duy của nhân loại lúc đó đã tồn tại hai phương pháp biện chứng và siêu hình. Ph.Ăngghen cho rằng: phép biện chứng diễn ra trong lịch sử có các giai đoạn phát triển lớn sau:
Thời kì cổ đại Hy lạp đã có nhiều nhà biện chứng tự phát ngây thơ như: Arixtôt, Đêmôcrit, Hêracrit… Các ông đều cho rằng: Các sự vật của thế giới quanh ta nằm trong một mớ chằng chịt vô tận những sợi dây liên hệ và những tác động lẫn nhau trong đó không có cái gì là y nguyên như cũ mà tất cả đều vận động biến hóa và sinh thành, tiêu vong như Hêracrit đã khẳng định: “không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông”. Cách nhận xét thế giới ấy theo Ph.Ăngghen là cách nhận xét còn nguyên thủy ngây thơ nhưng căn bản là đúng song chưa phải là kết quả của sự nghiên cứu khoa học và thực nghiệm nghiêm chỉnh.
Đến thế kỉ XV – XVII, đây là thời kì khoa học tự nhiên đã phát triển và đi sâu vào phân tích chia nhỏ giới tự nhiên thành hai mảnh riêng biệt cố định để nghiên cứu. Nhưng phương pháp nghiên cứu ấy cũng để lại một thói quen xem xét sự vật một cách siêu hình.
Triết học thời cận đại cũng có những đại biểu xuất sắc của phép biện chứng như Đêcattơ và Xpinoda như Ph.Ăngghen đã nói: “Họ cũng đem lại cho chúng ta nhiều kiểu mẫu tuyệt tác về phép biện chứng”.(1) Nhưng thời kì này nhiều người cũng đã sa vào phương pháp tư duy siêu hình theo Ph.Ăngghen là do ảnh hưởng của triết học Anh. Rõ ràng nền triết học Anh có tính siêu hình máy móc điển hình và mang tính duy cảm rõ rệt.
Ph.Ăngghen viết: “Phương pháp nghiên cứu ấy đồng thời cũng để lại cho chúng ta một thói quen là xem xét các sự vật tự nhiên và các quá trình tự nhiên trong trạng thái tách rời của chúng, không coi chúng về bản chất là những sự vật biến đổi mà vĩnh viễn không thay đổi, không xem xét chúng trong trạng thái sống mà xem xét trong trạng thái chết”. (2)
Đến đầu thế kỉ XIX xuất hiện phép biện chứng của Hêghen, phương pháp biện chứng xem xét sự vật và phản ảnh chúng trong sự liên hệ qua lại, sự vận động và sự phát sinh và tiêu vong của những sự vật. Công lao lớn nhất của Hêghen - người đương thời với Xanhximông là quay trở lại phép biện chứng là một hình thức cao nhất của tư duy. Hêghen đã coi toàn bộ của thế giới tự nhiên lịch sử và tinh thần như một quá trình, nghĩa là không ngừng vận động biến đổi, cải tạo, phát triển và tìm hiểu những mối liên hệ nội tại của sự vận động và phát triển đó. Theo quan điểm lịch sử, xã hội loài người phải là một mớ hỗn độn những hiện tượng ngẫu nhiên vô nghĩa, những cuộc bạo động vô nghĩa không phù hợp với tính tuyệt đối, đáng phải kết hợp như nhau trước tòa án của lý tính vĩnh cửu. Trái lại, nó hiện ra như quá trình phát triển của bản thân loài người. Theo qui luật và nhiệm vụ của tư duy khoa học phải theo dõi những giai đoạn phát triển tuần tự của quá trình ấy qua tất cả những bước phát triển của nó và chứng minh với qui luật bên trong của nó trong tất cả những sự ngẫu nhiên bên ngoài. Sỡ dĩ trong giai đoạn này có được phép biện chứng là do khoa học liên nghành phát triển mạnh đòi hỏi phải có mối liên hệ với nhau, nhưng khi giải thích và chứng minh thì người ta không chứng minh được, có nghĩa là biện chứng nhưng lại duy tâm.
Còn Phoiơbách là nhà duy vật đương thời với Hêghen nhưng ông lại không tránh khỏi tình trạng là một nhà duy vật siêu hình. Khi xem xét giới tự nhiên thì ông là một nhà duy vật nhưng khi xem xét xã hội loài người thì ông lại là nhà duy tâm về lịch sử.
Như vậy, chủ nghĩa duy tâm từ trước kia đến Hêghen vẫn thống trị trong đời sống tinh thần là một sai lầm sớm hay muộn người ta vẫn phải quay lại chủ nghĩa duy vật nhưng không phải quay lại với chủ nghĩa duy vật siêu hình máy móc thô sơ của những thế hệ trước.
Theo Ph.Ăngghen: “Ngược lại với những lời buộc tội có tính chất cách mạng ngây thơ gạt bỏ một cách giản đơn tất cả lịch sử trôi qua, chủ nghĩa duy vật hiện đại thấy lịch sử là một quá trình phát triển của loài người và nhiệm vụ của nó là phát triển ra những qui luật vận động của quá trình ấy”. (3)
Chủ nghĩa duy vật hiện đại là sự tổng hợp tất cả những tiến bộ mới nhất của khoa học tự nhiên căn cứ theo những tiến bộ ấy thì giới tự nhiên cũng có lịch sử của bản thân nó trong thời gian loài người là một bộ phận của giới tự nhiên. Cho nên cả trong hai trường hợp giới tự nhiên và xã hội loài người thì chủ nghĩa duy vật hiện đại về bản chất là biện chứng.
Như vậy, trên cơ sở kế thừa nhân tố tích cực tri thức của nhân loại đặc biệt là phương pháp biện chứng của Hêghen, chủ nghĩa duy vật của Phoiơbách có phê phán, có chọn lọc. C.Mác – Ph.Ănghen đã xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng của mình và vận dụng nó vào việc nghiên cứu xã hội loài người để hình thành hệ thống quan điểm về lịch sử.
Từ đây trở đi người ta thấy rằng: “Toàn bộ lịch sử từ trước đến nay từ trạng thái nguyên thủy đều là lịch sử của những cuộc đấu tranh giai cấp, rằng những giai cấp xã hội đấu tranh với nhau ấy lúc nào cũng là sản phẩm của những quan hệ kinh tế của thời đại của các giai cấp ấy, rằng do đó cơ cấu kinh tế của xã hội lúc nào cũng là cái cơ sở hiện thực xét cho đến cùng thì giải thích toàn bộ cái thượng tầng những thiết chế pháp quyền và chính trị cũng như những quan niệm tôn giáo, triết học và các quan niệm khác của mỗi thời kì lịch sử nhất định. Hêghen đã giải phóng quan niệm về lịch sử khỏi phương pháp siêu hình. Ông đã làm cho nó trở nên biện chứng nhưng quan niệm về lịch sử của ông về biện chứng lại là duy tâm. Giờ đây chủ nghĩa duy tâm đã bị tống ra khỏi nơi ẩn náo cuối cùng của nó, tức là ra khỏi quan niệm về lịch sử. Giờ đây người ta đã có một quan niệm duy vật về lịch sử và người ta đã tìm được con đường để giải thích ý thức của con người từ sự tồn tại của con người chứ không phải lấy ý thức của con người để giải thích sự tồn tại của con người như từ trước tới nay”. (4)
Do đó, ngày nay chủ nghĩa xã hội không còn bị xem là một phát hiện ngẫu nhiên của một đầu óc thiên tài nào đó mà là kết quả tất yếu của một cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp phát sinh trong quá trình lịch sử - giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội không còn là ở chỗ nghiên cứu cái quá trình kinh tế - lịch sử tất yếu đã sản sinh ra các giai cấp nói trên và sự đấu tranh giữa các giai cấp ấy, và ở chỗ phát hiện ra trong tình hình kinh tế do quá trình ấy tạo ra, những phương tiện để giải quyết cuộc xung đột mà chủ nghĩa xã hội khoa học có nhiệm vụ giải thích sự tất yếu sản sinh ra, tồn tại phát triển và diệt vong của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phải vạch rõ bản chất của phương thức sản xuất ấy như Ph.Ăngghen đã nói. Nhiệm vụ ấy được hoàn thành nhờ sự phát hiện ra qui luật về giá trị thặng dư.
Chính vì vậy, Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Chúng ta đã có được hai phát hiện vĩ đại ấy – quan niệm duy vật lịch sử và sự bóc trần bí mật của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thông qua giá trị thặng dư là nhờ C.Mác. Nhờ hai phát hiện này chủ nghĩa xã hội đã trở thành khoa học, và giờ đây vấn đề trước hết là cần phải tiếp tục nghiên cứu nó trong mọi chi tiết và trong mọi mối liên hệ của nó”. (5)
Như vậy, Ph.Ăngghen đã luận chứng một cách khách quan về cơ sở triết học của chủ nghĩa xã hội khoa học. Từ sự kế thừa những tinh hoa trí tuệ của loài người gắn với mảnh đất hiện thực đã chín muồi để phát triển thành những học thuyết khoa học của mình. CMác – Ph.Ăngghen đã đưa ra ba phát kiến vĩ đại: Chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết giá trị thặng dư và sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân.
Với những phát kiến vĩ đại đó, C.Mác và Ph.Ăngghen luận giải một cách khoa học là xã hội loài người phát triển nhất thiết phải trải qua năm hình thái kinh tế xã hội: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa mà đỉnh cao là cộng sản chủ nghĩa. Sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của của chủ nghĩa xã hội là tất yếu như nhau. Hai ông đã đi từ qui luật chung nhất của xã hội loài người, mối quan hệ biện chứng giữa qui luật quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất để phân tích đi tới kết luận ấy. Như vậy, vượt lên trên các nhà không tưởng trước đó chính là sự tất yếu vận động và phát triển của xã hội loài người.
Với tác phẩm “Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học” ta thấy rõ lập trường, mục đích đường lối chính trị của giai cấp công nhân quốc tế - giai cấp có sứ mệnh thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.
Th.s Lê Cẩm Lệ - P.Trưởng Khoa xây dựng Đảng